Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2019

"Sán chó" nguy hiểm như thế nào?

Toxocara spp là một nhiễm trùng lây truyền từ động vật sang người (zoonosis) do giun tròn ký sinh thường được tìm thấy trong ruột của chó (Toxocara canis) và mèo (T. cati). Được gọi là bệnh giun đũa chó hay còn gọi là sán chó.

Bệnh giun đũa chó (sán chó), mèo ở người được bác sĩ Wilder phát hiện vào năm 1950 khi có dấu hiệu giun sán trong võng mạc con người. Sau đó được bác sĩ Beaver đặt tên là “ấu trùng di chuyển bên trong nội tạng”. Các giun này sẽ đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài môi trường. Sau 1 – 2 tuần các trứng này sẽ hóa phôi. Đây là giai đoạn có thể gây bệnh cho người nếu nuốt phải trứng.
Nhiễm sán chó thường gây ngứa ngáy khắp người
Sau khi nuốt trứng vào cơ thể, các ấu trùng giun sẽ được phóng thích, đi xuyên qua thành ruột và theo đường máu di chuyển đến gan, phổi, hệ thần kinh trung ương. Tại đây, các ấu trùng có thể sống sót trong cơ thể người trong nhiều tháng và sau đó bị phản ứng viêm của cơ thể người tiêu diệt. Các ấu trùng sẽ ngừng phát triển nhưng chỉ sau khi chúng đã gây tổn thương tại các mô.
Bệnh sán chó có nguy hiểm không?
Trong cơ thể người, trứng giun đũa chó sẽ nở thành ấu trùng, có thể di chuyển khắp nơi trong cơ thể và đến các cơ quan như não, mắt, gan, phổi,… Khi đó sẽ gây ra các triệu chứng bệnh ở các cơ quan này.
Nếu bị nhiễm sán chó ở mắt, có thể gây giảm thị lực, thậm chí là mù lòa. Nhiễm sán chó ở não sẽ gây viêm não, nhức đầu, co giật. Vì thế, bệnh sán chó cũng là căn bệnh nguy hiểm mà bạn cần phải đề phòng.
Cách phòng bệnh sán chó
bệnh sán chó có thể lây lan qua đường ăn uống khi ăn những thức ăn có chứa ấu trùng giun nên để phòng tránh căn bệnh này bạn nên:
Tránh để chó tiếp xúc với đồ dùng cá nhân để phòng bệnh sán chó

  • Giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ.
  • Rửa tay sạch sẽ, tốt nhất rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.
  • Thường xuyên lau dọn nhà sạch sẽ.
  • Ăn chín, uống sôi.
  • Không cho chó đi vào nhà thường xuyên, không ôm, ngủ chung với chó dù nó là thú cưng của bạn.
  • Tắm cho chó thường xuyên, tẩy giun định kỳ.
  • Nếu trong nhà có trẻ em, không để trẻ chơi với chó, không để bé bò dưới đất (nhất là những nơi chó thường nằm).
  • Không cho chó vào khu vực trồng rau, cải của vườn nhà để tránh nhiễm sán từ phân chó.
Lưu ý: Nếu thường xuyên tiếp xúc với chó mà cơ thể có các triệu chứng như mệt mỏi, đau bụng, ăn không ngon, sụt cân, ngứa hoặc nóng sốt, ho, khò khè,…thì bạn nên đến gặp bác sĩ để thăm khám, thực hiện các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán xem có mắc bệnh sán chó hay không. Việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ giúp bạn tránh được các biến chứng nguy hiểm.

Thứ Năm, 30 tháng 5, 2019

Nhiều người chủ quan cho rằng giun sán chỉ gây ngứa, mủ và viêm da, nhưng nhiều trường hợp chúng có thể di chuyển và phá hủy các bộ phận khác như não, cơ tim, mắt.

Giun sán có nguy hiểm không?
Bác sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, Giám đốc Phòng khám Quốc tế Ánh Nga, chuyên khoa Ký sinh trùng cho biết thói quen ăn rau, hải sản và thịt tái, sống của chúng ta đã tạo điều kiện cho giun sán và các loại ký sinh trùng nguy hiểm đi vào cơ thể.
Bệnh giun sán có rất nhiều loại, trong đó có các loại hay gặp ở Việt Nam là sán lá gan lớn, giun đầu gai, giun lươn, giun đũa chó/mèo, amíp, sán máng, sán gạo heo và sán lá phổi (Paragonimus).
Trong đó, mỗi loại sẽ gây một sức tàn phá khác nhau trong cơ thể. Chúng có thể ăn lên não, cơ tim, mắt hoặc chỉ gây ngứa, mủ và viêm da. Biểu hiện rõ ràng dễ nhận thấy nhất khi bị giun sán là ngứa da.
Khi xâm nhập vào cơ thể người, chúng không phát triển ngay thành những con giun nhỏ, mà tiếp tục tồn tại dưới dạng ấu trùng, hình thành những khối u di chuyển được trong da và mô mềm, thường xuất hiện ở mặt, mu bàn tay, lưng, mông, bụng…
Khối u này dần chuyển thành một nốt nhỏ hoặc một khối phù nề, gây ra những tổn thương đối với hệ thần kinh trung ương như làm rối loạn tri giác, liệt nửa người, hôn mê.
Ngoài ra, ấu trùng trong lươn còn có thể di chuyển vào nội tạng như gan, phổi, gây đau bụng, ho, đau ngực, khó thở.
Nếu chúng di chuyển vào mắt thì sẽ gây xuất huyết, giảm thị lực, dẫn đến mù lòa.
Còn khi chúng chui vào hốc tai, hốc mũi sẽ gây ra hiện tượng nhức tai, viêm mũi.
Loại sán ăn não nguy hiểm nhất hiện nay, tiêu biểu là sán chó (dễ có trong rau sống, thịt sống, tái, gỏi cá), ấu trùng sán gạo heo (thịt lợn không nấu kỹ, tiết canh), giun lươn (có trong rau sống, động vật thủy sinh như ốc, sò hấp, có thể gây tử vong).
Hình ảnh ấu trùng sán lợn trong thực phẩm và dưới da người
Vẫn theo bác sĩ Ánh, các loại giun sán nguy hiểm, dễ gặp tùy thuộc theo vùng miền. Ở Miền Bắc, người ta chủ yếu bị sán gạo heo do thói quen ăn tiết canh. Hiện nay nhiều người cũng hay mắc sán chó/mèo nhưng các trung tâm y tế lại ít quan tâm đến vấn đề điều trị nên dễ xảy ra các biến chứng nguy hiểm.
Giun sán có thể tồn tại hàng chục năm trong cơ thể
Bác sĩ Ánh cho biết, đa phần các trường hợp nhiễm giun sán là qua đường tiêu hóa, tức ăn uống mất vệ sinh.
Trong đó, tiết canh, gỏi cá, thịt tái, bò lúc lắc, rau sống là những thực phẩm dễ chứa ấu trùng giun sán nhất hiện nay.
“Nhiều người vẫn ăn những thực phẩm này và tự tin rằng mình không gặp rắc rối. Xong, chúng ta cần hiểu rằng không phải lúc nào ấu trùng giun sán đi vào cơ thể sẽ gây ra phản ứng nguy hiểm ngay lập tức.
Chẳng hạn, khi bạn ăn tiết canh lợn có chứa ấu trùng sán gạo lợn, chúng sẽ xuyên qua thành ruột lên não và tồn tại hàng chục năm, tạo thành vôi trong não. Một số trường hợp sau 5-7 năm chúng sẽ gây viêm và tử vong cho người bệnh.
Thời gian này tùy thuộc vào cơ địa, hệ miễn dịch của từng người. Do đó, mọi người tuyệt đối không được chủ quan”, bác sĩ Ánh khuyến cáo.
Theo đó, khi nhiễm giun sán cơ thể bị tác động một cách âm ỉ kéo dài ảnh hưởng tới sức khỏe và tình trạng dinh dưỡng, thể chất, tinh thần và trí tuệ, thậm chí nguy hiểm tới tính mạng.
Phụ nữ trưởng thành và trong độ tuổi sinh sản, nhiễm giun sán gây thiếu máu ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của thai nhi, thậm chí đẻ non, thiếu cân, tử vong.
Đặc biệt, Việt nam là nước có khí hậu nhiệt đới, điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, tập quán sinh hoạt cũng như vệ sinh môi trường rất thích hợp cho sự phát triển và lây nhiễm của các mầm bệnh ký sinh trùng.
Người bị mắc giun bên cạnh do ăn uống, việc vô tình sờ vào vật dụng có ấu trùng cũng có thể mắc bệnh.
Tẩy giun không trị được giun sán
Chúng ta thường được khuyến cáo tẩy giun định kỳ 6 tháng một lần. Song thuốc này chỉ tiêu diệt được những loại giun có trong ruột, có thể gồm giun móc, giun tóc, giun lươn, giun kim. Thực chất có rất nhiều ấu trùng giun sán tập trung trong máu, nên thuốc tẩy giun khó có tác dụng với chúng. Vì vậy, việc phòng ngừa giun sán và tránh tái nhiễm là rất quan trọng.
Vì vậy, theo bác sĩ Ánh, tốt nhất, chúng ta nên đi xét nghiệm giun sán từ 6-12 tháng một lần.
Ngoài ra, chúng ta cần phòng bệnh bằng cách sử dụng thức ăn đã nấu chín, uống nước đã đun sôi, xử lý các chất thải sạch sẽ (không phóng uế bừa bãi), rửa tay thường xuyên trước khi ăn, thường xuyên giặt giũ quần áo, chăn mền, thường xuyên làm vệ sinh đồ chơi trẻ em.
Lưu ý, không ăn các thức ăn chưa nấu chín như phở bò tái, hải sản sống hoặc tái,… Những người hay bị ngứa da, chữa da liễu không khỏi nên xét nghiệm giun sán.

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2019

Mức độ nguy hiểm của sán chó

Bệnh sán chó hay còn gọi là nhiễm sán chó, qua ăn uống con người mắc phải trứng giun sán có trong đất, nước bị nhiễm phân chó mèo, hay nuốt phải ấu trùng khi ăn một số thịt cá tái sống , rau chưa được nấu chín. Sau 1-2 tuần trứng phát triển thành ấu trùng xâm nhập các bộ phận trong cơ thể. Tỷ lệ này từ chó (Toxocara canis) chiếm  80% và từ  mèo Toxocara cati chiếm 20%.

Hình ảnh ấu trùng sán chó dưới da
Mọi người đều có thể bị nhiễm bệnh giun sán và mắc bệnh sán chó. Nhất là các gia đình nuôi chó mèo và trẻ con nhiễm cao hơn người lớn . Tỷ lệ nông thôn nhiễm cao hơn thành phố do sử dụng nguồn nước và tiếp xúc với đất thường xuyên. Những người hay ăn các loại rau, thịt động vật tươi sống. Những người hay ăn các nội tạng động vật chưa được nấu chín kỹ, uống phải nguồn nước nhiễm trứng giun. Thói quen tiếp xúc thú cưng hay đất, không rửa tay trước khi ăn. Ở Việt Nam có khoảng 20% người có kháng thể với giun đũa chó và tỷ lệ này ngày càng tăng nhanh. Tại Mỹ, tỷ lệ nhiễm cao nhất là 13,9% và giảm dần còn 5,1%.
Phần lớn nhiễm giun đũa chó không có triệu chứng mà tình cờ phát hiện qua xét nghiệm kiểm tra sức khỏe tổng quát. Một số trường hợp phát hiện khi phát ban ngứa, điều trị bệnh da liễu hay bệnh dị ứng, bệnh viêm gan ... Khi dùng thuốc giảm ngứa nếu ngừng thuốc 1 – 2 tuần tái phát lại. Một số trường hợp mệt mỏi, cáu gắt, sốt nhẹ, sôi bụng, gầy gò, chán ăn mà không tìm ra nguyên nhân.
Vì vậy, khi nổi mẩn ngứa thì không nên tự điều trị ở nhà mà hãy nhanh chóng đến ngay phòng khám chuyên khoa ký sinh trùng để được bác sĩ tiến hành khám và điều trị. Những trường hợp bị ngứa lâu ngày thì nên xét nghiệm máu để chẩn đoán một số loại giun sán gây nổi mẩn ngứa. Nếu bị nhiễm giun đũa chó mà không điều trị sớm sẽ gây biến chứng đến não, gan, mắt thật sự rất nguy hiểm.
Chúc bạn sức khỏe.




Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2019

Sán và giun là 2 loài ký sinh trùng riêng biệt. Trong dân gian hay nhầm lẫn giữa 2 loài này, cũng có người hiểu bệnh giun sán là cùng một loài. Ngay cả bác sĩ không phải là bác chuyên khoa Ký sinh trùng cũng dễ gọi nhầm con giun thành con sán.

Biểu hiện của nhiễm sán chó
Chẳng hạn như con giun đũa chó thường được gọi là con sán chó hoặc con sán lãi. Hệ quả sau đó là việc điều trị cũng nhầm theo, chẩn đoán là bệnh sán chó và điều trị bệnh sán chó. Thuốc điều trị đặc hiệu giun và điều trị đặc hiệu sán cũng khác nhau. Phỏng vấn 50 bệnh nhân đến khám tại Phòng khám Ánh Nga - Chuyên khoa Ký sinh trùng. Kết quả cho thấy khi bệnh nhân có nghi ngờ nhiễm sán thì có tới 85% bệnh nhân tự ra quầy mua thuốc sổ giun.
Hay ngược lại, có những bệnh nhân tự đi xét nghiệm ở phòng xét nghiệm nào đó, khi có kết quả là dương tính với giun đũa chó thì bệnh nhân cũng tự ra quầy thuốc mua thuốc điều trị bệnh sán chó.
Khi bệnh nhân biết tìm đến bác sĩ chuyên khoa ký sinh trùng thì đã tốn rất nhiều thời gian và chi phí rất nhiều tiền cho việc điều trị bệnh giun sán ở nhiều nơi mà bệnh không khỏi. Chưa kể đến việc đi khắp các bệnh viện lớn, chờ đợi từ 3h sáng đến chiều mới tới lượt khám bệnh.
Với thực tế tình hình bệnh nhân tốn công sức, thời gian và tiền bạc, mà lại không gặp đúng bác sĩ chuyên khoa điều trị. Sự tận tâm của các bác sĩ Phòng khám Ánh Nga - chuyên khoa Ký sinh trùng sẽ giúp người bệnh quên đi nỗi lo bệnh tật.
Chúc bạn sức khỏe.

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2019

Điều trị sán chó ở đâu tốt nhất?

Giun đũa chó (Toxocara) chính là loại ký sinh trùng mà người dân hay gọi là con sán chó hay lãi chó. Thông thường ấu trùng giun đũa chó sẽ phát triển thành con giun trưởng thành trong ruột của con chó. Phòng bệnh cho chó, người nuôi cần cho chó sổ giun, sán định kỳ.

Bệnh sán chó ảnh hưởng tới sức khỏe con người như thế nào?

Đối với con người, khi nhiễm ấu trùng giun đũa chó (Toxocara), trong ruột người, ấu trùng giun này tìm đường di chuyển nhưng gặp ký chủ bất thường nên chúng tạo ra phản ứng mạnh của cơ thể người. Có khi gây ra ngứa da dữ dội.
Chàm da nổi mụn ở bệnh nhân xét nghiệm dương tính với ấu trùng giun đũa chó (sán chó)
Ấu trùng giun đũa chó mèo xâm nhập gan, phổi, các phủ tạng khác, thậm chí vào cả não và mắt gây bệnh rất nguy hiểm. Nhưng chúng chỉ kéo dài cuộc sống trong một thời gian vài tuần, vài tháng rồi bị chết và bị vôi hóa vì không thể hoàn thành được chu kỳ sinh trưởng trong cơ thể người.
Bệnh do ấu trùng giun đũa chó mèo gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng gặp nhiều ở trẻ em do trẻ thường tiếp xúc, chơi đùa với chó, mèo và đất cát nhiễm trứng giun cũng như ý thức vệ sinh của trẻ còn kém.
Hình ảnh ngứa da do bệnh sán chó (giun đũa chó)
Điều trị bệnh sán chó ở người cần phải được bác sĩ chuyên khoa ký sinh trùng tư vấn và điều trị. Người bệnh không nên tự ý mua thuốc dùng bởi có thể không đúng thuốc, không đúng liều lượng dễ dẫn tới tình trạng kháng thuốc. Ngoài thị trường chỉ có bán các loại thuốc tẩy giun thông thường cho con người sổ giun định kỳ.
Bác sĩ chuyên khoa điều trị bệnh sán chó ở người (giun đũa chó) sẽ theo dõi quá trình dùng thuốc, hiệu quả sau khi điều trị để có hướng tư vấn và điều trị triệt để.
Cơ sở khám và điều trị bệnh sán chó ở người uy tín tại thành phố Hồ Chí Minh: Phòng khám quốc tế Ánh Nga - chuyên khoa Ký Sinh Trùng - Số 402, đường An Dương Vương, P.4, Q.5, Tp.HCM.


Thứ Năm, 23 tháng 5, 2019

Ai cũng một và lần trong đời bị nổi mẩn ngứa, tuy nhiên nổi mẩn đỏ ngứa cứ xuất hiện nhiều lần theo từng đợt hoặc liên tục không dứt, thì đó rất có thể là dấu hiệu của nổi mẩn ngứa do nhiễm ký sinh trùng giun sán trong máu nguy hiểm mà bệnh nhân không nên chủ quan lơ là. Dưới đây là một số biểu hiện về bệnh nổi mẩn đỏ ngứa do nhiễm giun sán trong máu, xin chia sẻ để bạn đọc tham khảo.

Biểu hiện nổi mẩn ngứa ngoài da do nhiễm ký sinh trùng:

- Phù mạch: với biểu hiện một vùng da bị sưng xuất phát ở trong da, hay xảy ra ở mí mắt, môi, thanh quản, bụng hoặc cánh tay và chân. Thường thì kết hợp với phát ban, sưng trong da trên. Khởi phát thường là vài phút đến vài giờ.
Hình ảnh phù mạnh nổi mẩn ngứa ở bệnh nhân nhiễm giun đũa chó toxocara (sán chó)
- Phát ban: xuất hiện những nốt đỏ nổi trên da và rất ngứa, ban ngứa thường nổi và mất đi chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ và tái diễn lại thêm nhiều lần khác. Đôi khi có biểu hiện đau tức ngực thoáng qua, khó thở nhẹ, khó chịu ở họng.
Hình ảnh phát ban nổi mẩn ngứa ở bệnh nhân nhiễm giun sán trong máu
- Chàm da, viêm da dị ứng đa dạng với nhiều hình thái khác nhau, có người chỉ ngứa tại vùng thắt lưng, cẳng tay và đùi, có người thì xuất hiện nhiều mảng da thâm đen thô ráp, bong vảy, kèm ít dịch viêm,...

Tại sao nhiễm ký sinh trùng giun sán lại gây nổi mẩn ngứa phù mạch phát ban?

Ký sinh trùng giun sán khi nhiễm cho người là dạng ấu trùng rất nhỏ và có sức chịu đựng tốt trong môi trường ngoại cảnh. Khi chúng ta vô tình nuốt phải ấu trùng qua đường ăn uống, vết trầy xước da khi làm vườn, qua niêm mạc. Ấu trùng vào máu, trong dòng máu dịch bài tiết của ấu trùng khiến cơ thể nhận biết đó là một dị nguyên lạ và sinh ra kháng thể chống lại dị nguyên đó, gây nên tình trạng dị ứng nổi mẩn ngứa.
Thời gian nhiễm ký sinh trùng giun sán càng lâu, mức độ tiếp xúc với chất gây dị ứng càng nhiều thì bệnh nổi mẩn ngứa càng nặng thêm.

Phương pháp xét nghiệm nào giúp chuẩn đoán sớm nổi mẩn ngứa do giun sán?

Bạn bị nổi mẩn ngứa lâu ngày xuất hiện nhiều lần theo từng đợt hoặc liên tục không dứt, đã khám và điều trị da liễu nhiều nơi, uống thuốc bớt ngứa, hết thuốc ngứa lại, bạn không nên chủ quan lơ là, hãy dành thời gian đi xét nghiệm máu để chẩn đoán bệnh nổi mẩn ngứa do giun sán và đồng thời cũng có thể tìm ra được một số nguyên nhân dị ứng ngứa khác như: dị ứng thức ăn, dị ứng mặt bụi, mỹ phẩm, lông biểu mô thú cưng,…
Xét nghiệm máu bằng phương pháp Elisa là phương pháp thông dụng nhất hiện nay để chẩn đoán bệnh nổi mẩn ngứa do giun sán trong máu, phương pháp này thường được triển khai phòng khám chuyên khoa ký sinh trùng, cho kết quả với độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Giúp nhiều bệnh nhân tìm được nguyên nhân, trị bệnh và chấm dứt tình trạng nổi mẩn ngứa da lâu ngày.

Điều trị bệnh giun sán cải thiện tình trạng nổi mẩn ngứa như thế nào?

Một nghiên cứu tại Phòng khám chuyên khoa nội ký sinh trùng Ánh Nga năm 2017 trên 55 bệnh nhân (13 bệnh nhân nam và 42 bệnh nhân nữ, độ tuổi trung bình là 36), xét nghiệm nhiễm bệnh giun sán, trong đó 40 bệnh nhân chiếm (73,3%) có biểu hiện phát ban dị ứng da ngứa và 15 bệnh nhân chiếm (26,6%) có biểu hiện phù mạch nhẹ với cơn ngứa thoáng qua. Ở những bệnh nhân bị nhiễm giun đũa chó toxocara (sán chó) các triệu chứng nổi mẩn ngứa thường nặng hơn.
Nổi mẩn ngứa ở cẳng tay bệnh nhân xét nghiệm nhiễm giun đũa chó toxocara trước điều trị
Số trường hợp nhiễm bệnh giun đũa chó toxocara (sán chó) là cao, 38 bệnh nhân chiếm tỷ lệ (69,09%), 17 bệnh nhân nhiễm các loại giun sán khác như giun lươn (Strongyloides), sán lá gan lớn và giun đũa chiếm (32,72%). Trong đó có 7 trường hợp nhiễm phối hợp giun đũa chó Toxocara kèm theo nhiễm giun lươn, 3 trường hợp nhiễm giun đũa chó (Toxocara)sán lá gan lớn.
Sau khi điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng kết quả 90% biểu hiện nổi mẩn ngứa được cải thiện, 10 % số còn lại khi tái khám xét nghiệm bổ sung bộ dị ứng, kết quả 8 bệnh nhân bị dị ứng với mạt bụi nhà Blomia tropicalis, 2 trường hợp không tìm ra nguyên nhân ngứa, tuy nhiên qua hỏi bệnh thì có mẹ cũng bị nổi mẩn ngứa mãn tính.
Nổi mẩn ngứa ở cẳng tay bệnh nhân xét nghiệm nhiễm giun đũa chó toxocara sau điều trị
Kết luận: Ký sinh trùng thường xuyên nhất liên quan đến các biểu hiện nổi mẩn ngứa là giun đũa chó Toxocara (sán chó). Hiện tượng phát ban dị ứng da ngứa là biểu hiện chính của da trong nhiễm ký sinh trùng. Không phải tất cả các trường hợp nổi mẩn ngứa đều do nhiễm ký sinh trùng giun sán trong máu.

Giun lươn được phát hiện bởi Louis Normand năm 1876 gây rối loạn tiêu hóa, đặc biệt là tiêu chảy. Những trường hợp đầu tiên gặp ở binh lính Pháp ở Đông Dương. Sau nhiều lần được thay đổi tên, từ năm 1911 đến nay tác nhân gây bệnh có tên thống nhất là Strongyloides stercoralis.

Có 52 loài giun lươn khác nhau gây bệnh nhưng chỉ có hai loài gây bệnh cho người là Strongyloides stercoralis, Strongyloides fuelleborni. S.fuelleborni hiếm gặp ở người và gặp ở khỉ nhiều hơn. Tuy được phát hiện đã lâu, nhưng đến nay nhiều vấn đề về giun lươn vẫn chưa được sáng tỏ.
1. Hình thể giun lươn Strongyloides:
Strongyloides stercoralis ký sinh

Giun cái có hình ống, rất nhỏ, chiều dài 2 -2,8mm, chiều ngang khoảng 37 – 40 µm, trong suốt. Miệng có hai môi, thực quản hình ống dài khoảng 1/4 chiều dài toàn thân. Hệ sinh dục của Strongyloides stercoralis bao gồm tử cung và buồng trứng nằm đối xứng qua lỗ sinh dục ở khoảng giữa thân giun. Giun cái sống trong lớp dưới màng nhầy niêm mạc ống tiêu hóa người.
Người ta chưa tìm thấy giun đực ký sinh. Một số giả thuyết cho rằng vẫn có con đực sống ký sinh nhưng rất nhỏ không thể tìm thấy. Tuy nhiên, đa số vẫn thiên về ý kiến không có con đực sống ký sinh. Con cái trưởng thành sẽ trinh sản (trinh sản hay còn gọi là trinh sinh là một hình thức sinh sản mà trứng không thụ tinh phát triển thành cá thể mới).

Strongyloides stercoralis sống tự do

Giun cái dài khoảng µ - 1,5mm, chiều ngang 50-80 µm, thực quản có dạng phình.

Giun đực sống tự do có chiều dài ngắn hơn con cái, hình chữ J, dài khoảng 0,7mm, chiều ngang khoảng 50 µm, đuôi cong có hai gai sinh dục.

Trứng giun lươn Strongyloides stercoralis

Trứng Strongyloides stercoralis (sống ký sinh) hình bầu dục, kích thước khoảng 54 x 32 µm, vỏ mỏng, trong suốt, giống như trứng giun móc nhưng có sẵn ấu trùng bên trong

Trứng do con cái sống tự do đẻ sẽ có kích thước lớn hơn, 70 x 45 µm, vỏ chỉ là một màng mỏng, có thể thay đổi hình dạng từ tròn sang bầu dục khi ấu trùng di chuyển bên trong trứng.

Hình ảnh hai dạng ấu trùng giun lươn
Ấu trùng giai đoạn I (rhabditiform – ấu trùng có thực quản phình): Nở từ trứng, có kích thước khoảng 200 – 250 x 16 – 20 µm, xoang miệng ngắn, đuôi nhọn, thực quản có eo thắt nên có dạng phình.

Ấu trùng giai đoạn 2 (filariform - ấu trùng có thực quản hình ống): Phát triển từ ấu trùng giai đoạn I. Kích thước thay đổi từ 400 – 700 µm, ngang 12-20 µm, thực quản có dạng hình ống dài từ 40% - 45% chiều dài toàn thân. Đuôi tù hoặc có hình chẻ hai ở tận cùng như đuôi én.
2. Chu trình phát triển bệnh giun lươn Strongyloides:

Người bị nhiễm khi tiếp xúc với đất ô nhiễm phân có ấu trùng giai đoạn 2 (filariform) sống tự do xâm nhập vào da. Ấu trùng theo đường máu và di chuyển đến phổi qua đường tuần hoàn. Ở phổi, ký sinh trùng làm vỡ mao quản phổi và đi vào phế nang, sau đó chúng di chuyển đến phế quản, khí quản, vào yết hầu, thực quản và được nuốt vào ống tiêu hóa, phát triển thành giun cái trưởng thành.
Giun cái trưởng thành sống ký sinh trinh sản, giun bám vào màng nhầy ruột non, đẻ trứng. Trứng nở ra ấu trùng giai đoạn I ngay tại niêm mạc ruột, theo phân ra ngoài. Ấu trùng giai đoạn 1 phát triển thành ấu trùng giai đoạn 2, xâm nhập da khi người tiếp xúc đất, tương tự giun móc (chu trình trực tiếp).

Ấu trùng 2 có thể chuyển sang chu trình gián tiếp (đời sống tự do), lột xác bốn lần thành con đực và cái trưởng thành sống tự do. Con trưởng thành giao phối và tạo ra những thế hệ con cháu đi đến đời sống ký sinh kế tiếp tương tự chu trình trực tiếp.

Điều kiện thuận lợi bên trong ký chủ và bất lợi bên ngoài ký chủ dễ dàng cho chu trình trực tiếp; điều kiện bất lợi bên trong ký chủ và thuận lợi bên ngoài ký chủ dễ dàng cho chu trình gián tiếp.

Một đặc điểm của Strongyloides stercoralis là một phần nhỏ của ấu trùng giai đoạn 1 lột xác trong ruột non thành ấu trùng giai đoạn 2. Ấu trùng giai đoạn 2 xâm nhập vào vách ruột già hay da quanh hậu môn, hoàn tất chu trình bên trong cơ thể người, phát triển thành con đực và cái trưởng thành ở ruột non.

Đây là chu trình tự nhiễm, chu trình này xảy ra thường xuyên, liên tục, khiến trong cơ thể ký chủ lúc nào cũng có ấu trùng luân lưu, kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, mặc dù ký chủ không tái nhiễm. Chu trình tự nhiễm này là nguyên nhân của nhiều vấn đề bệnh lý nội khoa phức tạp. chu trình này chiếm ưu thế ở những cá thể suy giảm miễn dịch như lạm dụng corticoids, nhiễm HIV, HTLV-1, ung thư máu, ghép cơ quan.

Ngoài con đường thông thường, chúng có thể theo đường máu xâm nhập các cơ quan khác nhau trong cơ thể. Tùy theo vị trí ký sinh của ấu trùng trong cơ thể, bệnh nhân sẽ có những biểu hiện lâm sàng khác nhau ở những cơ quan tương ứng. Trong những trường hợp này, ấu trùng ít khi được phát hiện trong phân, do vậy chẩn đoán phải dựa vào huyết thanh miễn dịch học.
3. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun lươn Strongyloides:
Tác giả Sturchler năm 1981 phân chia tình hình nhiễm giun lươn thành ba vùng : Vùng lưu hành nhẹ khi tỷ lệ nhiễm < 1%, vùng nội dịch từ 1% - 5% và vùng lưu hành nặng >5%.

Vùng Đông Nam Á trong đó có Việt Nam được xếp vào vùng nội dịch.

Tại Việt Nam, những điều tra về Strongyloides stercoralis phát hiện các tỉnh và vùng lân cận thành phố Hồ Chí Minh như: Củ Chi, Thủ Đức, Hóc Môn, Long An, Bình Dương, chủ yếu là miền Đông Nam bộ. Trong khi đó các tỉnh phía Bắc lại không có nhiều dữ liệu nghiên cứu về giun lươn.

Những nghiên cứu điều tra cơ bản tại huyện Củ Chi TP.HCM bằng kỹ thuật soi trực tiếp đơn giản phát hiện tỷ lệ nhiễm giun lươn dao động từ 1,5% đến hơn 3%. Trong khi sử dụng kỹ thuật cấy khả năng phát hiện đến hơn 10% (12,7%).

Những hành vi nguy cơ được xác định dựa trên tính chất của chu trình phát triển là do tiếp xúc đất trong sinh hoạt hằng ngày như đi chân đất, chơi các trò chơi tiếp xúc với đất, gặp ở trẻ em sống vùng nông thôn, đặc biệt ở vùng đất ẩm, không ngập nước, có bóng râm quanh năm, người dân đi cầu bừa bãi ngoài đồng, ngoài ruộng, không có hố xí hợp vệ sinh. Trẻ em sống ở thành thị, nhưng nếu có dịp về các vùng nông thôn trên cũng có khả năng nhiễm khi có điều kiện tiếp xúc đất.
4. Biểu hiện lâm sàng bệnh giun lươn:
Giun lươn được xem là một tác nhân cơ hội. Phần lớn các trường hợp nhiễm đều có triệu chứng nhẹ hoặc không đáng kể. Đôi khi bệnh do giun lươn lại hết sức trầm trọng đặc biệt đối với những người suy giảm miễn dịch hoặc điều trị corticoid dài ngày. Bệnh được chia hai dạng chính:

- Bệnh giun lươn mạn tính, không biến chứng: Gặp ở cá thể bình thường, không suy giảm miễn dịch.

Đa số bệnh nhân không triệu chứng, nếu có, cũng không đáng kể, biểu hiện thường khu trú ở da và đường tiêu hóa.

Biểu hiện ở da:

Đường ngoằn ngoèo ở da: Thường là ngang thắt lung và quanh hậu môn, do ấu trùng di chuyển.

Ngứa da nổi mề đay dị ứng với nhiều hình thái, uống thuốc dị ứng bớt ngứa, hết thuốc ngứa lại.

Hình ảnh da nổi mẩn ngứa ở bệnh nhân xét nghiệm máu nhiễm giun lươn
Bầm máu da: Xuất hiện rải rác ở các chi, thân mình, kích thước khoảng 3 – 4cm. Thường các triệu chứng không đơn lẻ, mà thường kèm theo sốt, ói, nhức đầu.

Biểu hiện ở đường tiêu hóa: Những biểu hiện tiêu hóa đa dạng thường gặp ở bệnh giun lươn mạn tính.

Đau bụng: Có thể xảy ra ở bất cứ phần nào của bụng, nhưng phổ biến nhất là ở vùng thượng vị và hạ sườn phải.

Tiêu chảy: Cơn tiêu chảy thường tái phát ồ ạt, sau đó giảm bớt tự nhiên sau vài tuần. thường bệnh nhân đi cầu phân sệt. Kèm sốt từng cơn, rồi tự hết, mỗi ngày một vài lần, vài ngày sau bị một đợt tương tự tái đi tái lại.

Mất cân: mất cân nhẹ, thứ cấp do ăn mất ngon, nôn và tiêu chảy.

Ngứa hậu môn: Tương tự như bệnh giun kim do sự xâm nhập vào da quanh hậu môn của ấu trùng giai đoạn 2 (filarirorm).

Ngoài ra còn có thể gặp nhiều biểu hiện đa dạng như bệnh lý ở phổi: ho, viêm phổi, hình ảnh thâm nhiễm trên X-quang phổi; khới, viêm đa khớp, đau cơ; biểu hiện tâm thần suy sụp; có trường hợp tìm thấy ấu trùng giai đoạn I (rhabitiform) trong nước tiểu.

Tổn thương phổi trên phim XQ
- Bệnh nặng, có biến chứng: Thường gặp ở cá thể suy nhiễm miễn dịch.

Bệnh giun lươn mạn tính hay tái phát ở những người có sử dụng những loại thuốc như: kháng sinh, kháng acid, corticoids, ức chế miễn dịch.

Bệnh hay đi kèm với những bệnh khác như: nhiễm khuẩn kèm theo, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, suy thận mạn, bệnh ác tính, tiểu đường, nghiện rượu, suy dinh dưỡng.

Bệnh nhiễm giun lươn nặng hay nhẹ tùy thuộc vào mật độ nhiễm và mật độ cơ quan bị ký sinh, có kèm nhiễm khuẩn phụ hay không.

Nhiễm nặng có thể gây hội chứng giống Sparue: Phân có mỡ, mất đạm qua bệnh đường ruột, thiếu albumin trong máu và phù toàn thân. Bệnh nhân than phiền: Đầy hơi, trướng bụng, đi cầu phân rất hôi, mất cân, phù mặt và mắt cá. Một số bệnh nhân có tiền sử đau bụng dữ dội, ói, tiêu chảy. Khám thực thể: Sốt, tim đập nhanh, huyết áp thấp, bụng trướng to và đau, giảm nhu động ruột do tắc ruột một phần hay hoàn toàn.

Phổi: Viêm phổi, sốt, ho, khó thở, khò khè. Đôi khi làm áp-xe phổi.

Thần kinh trung ương: Do sự xâm nhập của ấu trùng giai đoạn 2 (filariform) thường kèm nhiễm khuẩn phụ thứ cấp. Đôi khi gây nhiễm màng não hay áp-xe não. Bệnh nhân than nhức đầu, nôn ói từng cơn. Khám lâm sàng: Sốt, cứng cổ, lơ mơ, dấu thần kinh trung ương tùy thuộc vùng ký sinh trùng xâm nhập.

Chọc dò tủy sống cho thấy dịch não tủy có nhiều bạch cầu đa nhân trung tính, hàm lượng protein tăng, glucose giảm, nhiễm vi khuẩn gram âm. Một số ít trường hợp, có thể thấy ấu trùng trong dịch não tủy. Một số bệnh nhân, có một hoặc nhiều áp-xe phát hiện bằng CT – Scan.

Mạch máu đem theo các vi khuẩn vào dòng máu và gây nhiễm trùng huyết cùng với sốc nhiễm trùng. Vi khuẩn gây ra thường nhất là E.coli và các vi khuẩn khác như : Klebsiella spp, Pseudomonas aeruginosa,…

Tóm lại, trường hợp nặng, ký sinh trùng có thể tàn phá cơ thể với biến chứng tắc ruột, viêm phổi, viêm màng não và nhiễm trùng huyết...có thể dẫn đến tử vong.
5. Chẩn đoán bệnh giun lươn Strongyloides:
Dựa vào tam chứng cổ điển: Tiêu chảy, đau bụng, nổi mề đay và đặc biệt là hội chứng ấu trùng di chuyển ngoài da, chú ý ở những bệnh nhân sống trong vùng nội dịch nhiệt đới. Đầu mối của chẩn đoán có thể được gợi ý bởi những xét nghiệm cận lâm sàng không đặc hiệu như X-quang, bạch cầu ái toan tăng cao, CRP tăng, tốc độ lắng máu tăng, tăng IgE trong huyết thanh.

Chẩn đoán trực tiếp tìm KST: Giun thường tìm thấy trong phân, đôi khi thấy trong dịch khác của cơ thể hay trong mô.

Phân: Xét nghiệm phân trực tiếp thường tìm thấy ấu trùng giai đoạn I. Trường hợp âm tính làm tập trung bằng phương pháp Baermann, cấy theo phương pháp Harada – Mori hay Sasa. Những trường hợp nhiễm nặng có thể thấy cả giun trưởng thành dạng sống tự do đực và cái trong phân. Đây cũng là điều chưa thể lý giải vì mầm bệnh đang trong cơ thể người nhưng lại là dạng sống tự do.

Các dịch khác như: Dịch dạ dày, tang tang, đàm, kể cả dịch não tủy lẫn nước tiểu. Sinh thiết vết loét dạ dày.

Chẩn đoán gián tiếp: Bằng huyết thanh miễn dịch học, sử dụng kháng nguyên thô hay tinh chế được điều chế từ ấu trùng giai đoạn 2 (filarigorm) sẽ phát hiện kháng thể kháng giun lươn, với kỹ thuật ELISA (có độ nhạy 93%, độ đặc hiệu 95%) hiệu giá 1/800 trở lên xem như dương tính.
6. Điều bệnh giun lươn ở đâu?
Tại phòng khám ký sinh trùng Ánh Nga điều trị bệnh giun lươn dựa trên nguyên tắc ưu tiên điều trị nguyên gây bệnh, kết hợp điều trị viêm da dị ứng ngứa. Trường hợp nhiễm giun lươn thông thường điều trị 5 đến 7 ngày ổn định, một số ít điều trị 15 ngày, một đến hai đợt. Những trường hợp ngứa da dị ứng do giun lươn, trị bệnh giun lươn cũng đồng thời ổn định bệnh ngứa lâu ngày.

- Điều trị thuốc đặc hiệu.

- Điều trị triệu chứng, giảm đau, kháng viêm, kháng Histamin,

- Tất cả các bệnh nhân có nguy cơ nhiễm giun lươn lan tỏa (Disseminated Strongyloidiasis) đều cần phải được điều trị tại tuyến chuyên khoa

- Thiabendazole 500mg

- Albendazole

- Ivermectin

- Các thuốc điều trị triệu chứng khác
7. Dự phòng bệnh giun lươn:
Trong vùng nội dịch không cho trẻ nghịch đất, đi chân đất, chơi các trò chơi tiếp xúc đất. Tránh đi cầu bừa bãi, xây dựng hố xí hợp vệ sinh.