Thông thường, người bị nhiễm giun móc Ancylostoma duodenale
qua cả đường tiêu hóa và đường da; riêng giun mỏ Necator americanus chủ yếu chỉ
lây nhiễm qua đường da, rất hiếm thấy lây nhiễm qua đường tiêu hóa. Ngoài hai
loại giun móc và giun mỏ thường gặp này, con người cũng có thể bị nhiễm các
loại giun móc Ancylostoma ký sinh ở chó, mèo do thường xuyên tiếp xúc với động
vật nuôi gần gũi với người làm ảnh hưởng đến sức khỏe.
Giun móc chó, mèo có tên khoa học là Ancylostoma caninum, Ancylostoma
braziliense, Uncinaria stenocephala là những loại giun móc
sống ký sinh ở trong ruột chó, mèo; ngoài ra có thể sống ký sinh ở khỉ và các
loại động vật ăn thịt khác như mèo rừng, hổ, báo, cầy giông,... Ở ký chủ bình
thường là các loại động vật, loại giun móc có chu kỳ phát triển giống như loại
giun móc Ancylostoma duodenale, giun mỏ Necator americanus ký
sinh và gây bệnh ở người. Trong điều kiện con người tiếp xúc với phân chó, mèo,
các động vật khác hoặc môi trường bị ô nhiễm có mang mầm bệnh thì ấu trùng của
các loại giun móc này có thể xâm nhập lạc chủ sang người nhưng ấu trùng giun
không có khả năng đi sâu vào trong cơ thể mà chỉ bò quanh quẩn ở mô dưới da,
chúng tồn tại ở đó trong nhiều tuần lễ gây nên hội chứng ấu trùng di chuyển
dưới da (visceral larva migrans).
Các loại ấu trùng giun móc chó, mèo gây bệnh cho người
Giun móc Ancylostoma caninum được phát hiện
lần đầu tiên vào năm 1859. Giun trưởng thành sống ký sinh ở ruột non của vật
chủ chính là chó, mèo, hổ,... Loại giun này phân bố ở khắp nơi trên thế giới và
cũng rất phổ biến tại Việt Nam. Giun trưởng thành có miệng rộng với 3 đôi
răng khỏe có thể ngoạm vào thành ruột. Trứng giun và ấu trùng giun giống như
các loại giun móc khác.
Giun móc Ancylostoma braziliense được phát
hiện lần đầu tiên vào năm 1910. Đây là loại giun móc nhỏ nhất, cũng ký sinh ở
ruột non của vật chủ chính là chó, mèo, mèo rừng, hổ, báo, cầy giông,... Loại
giun móc này cũng phân bố ở nhiều nơi trên thế giới như Nhật Bản, Ấn Độ,
Malaysia, Tây Phi, Mỹ La Tinh,... Ở Việt Nam, theo một số nhà khoa học
chúng hiện diện phổ biến ở nhiều nơi. Giun trưởng thành có miệng nhỏ với 2 đôi
răng lớn ở phía ngoài, đôi răng nhỏ ở phía trong. Trứng giun và ấu trùng giun
của loại giun móc này rất giống với các loại giun móc khác nên khó phân biệt.
Ấu trùng các loại giun móc nói trên khi xâm nhập vào người
sẽ gây nên hội chứng ấu trùng di chuyển dưới da ở người.
Nguyên nhân gây bệnh và triệu chứng bệnh lý
Các loại giun móc Ancylostoma caninum và Ancylostoma
braziliense thường gặp ở vùng nhiệt đới. Người bị nhiễm mầm bệnh
thường do tiếp xúc với đất, cát ở ngoại cảnh của môi trường sống bị ô nhiễm
phân chó, mèo có ấu trùng giai đoạn lây nhiễm được (larva filariform). Ấu trùng
giun chui qua da, thường ở vùng da tay, da chân. Do lạc chủ ký sinh thông
thường nên ấu trùng giun không có men phân hủy thành mạch máu của người bệnh
nên chúng không thể xâm nhập vào máu để đi chu du khắp cơ thể như các loại ấu
trùng giun ký sinh ở người, vì vậy chúng phải di chuyển ở mô dưới da. Bệnh
thường gặp ở những người làm vườn, trẻ em chơi nghịch đất cát, người đi chơi
ngồi ở các bãi biển,... Triệu chứng bệnh lý thường thấy tại chỗ ấu trùng giun
xâm nhập ở những vùng da để hở dễ tiếp xúc với đất, cát như bàn tay, cánh tay,
chân, đầu gối, mông,... như có vết sẩn đỏ, ngứa, thành mọng nước và sau từ vài
giờ hoặc 2 đến 3 ngày sẽ phát triển ra vùng da chung quanh thành một hay nhiều
đường ngoằn ngoèo, gồ cao, rất ngứa, kéo dài với tốc độ từ vài milimét đến vài
centimét mỗi ngày biểu hiện dấu hiệu đoạn đường ấu trùng đã di chuyển. Có thể
có các bóng nước nhỏ dọc theo đường hầm ấu trùng di chuyển, bị thâm nhiễm bạch
cầu và bạch cầu ái toan. Do gãi ngứa nên bệnh nhân có thể bị nhiễm trùng bội
nhiễm, sinh mủ,... Ấu trùng giun có thể tồn tại nhiều tuần, có khi kéo dài hàng
tháng. Trong một số các trường hợp, ấu trùng giun có khả năng thoát ra thành
mạch máu, lên phổi gây hội chứng Loeffler biểu hiện bằng các triệu chứng lâm
sàng giống như lao; bệnh nhân ho khan, đau ngực, bạch cầu ái toan tăng cao có
thể tới 40% hoặc hơn; chụp phim Xquang tim phổi có hình ảnh thâm nhiễm giống
lao nhưng hình ảnh này tự biến mất đi sau từ 1 đến 2 tuần mà không cần điều trị
gì. Cơ thể có thể có những phản ứng với ấu trùng giun móc tùy thuộc vào số
lượng ấu trùng giun bị nhiễm nhiều hay ít và sự đáp ứng của từng cơ thể con
người.
Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh
Chẩn đoán xác định bệnh thường căn cứ vào triệu chứng lâm
sàng tại chỗ và dấu hiệu dị ứng toàn thân. Sinh thiết da cho thấy những u hạt
chứa nhiều tế bào bạch cầu đa nhân ái toan, có thể gặp được ấu trùng nằm giữa u
hạt. Xét nghiện bạch cầu đa nhân ái toan trong máu có thể tăng nhưng không đều.
Điều trị bệnh có thể dùng các loại thuốc chống giun như
albendazole, flubendazole, thiabendazole. Thông thường sử dụng thuốc
thiabendazol với liều lượng 25mg/kg cân nặng mỗi ngày, dùng trong 2 đến 3 ngày
và nên kết hợp với các thuốc chống dị ứng. Có thể điều trị tại chỗ bằng phương
pháp đông lạnh ấu trùng với khí nén freon (cryofluorane) hoặc bằng thuốc mỡ có
chứa lindane 1%, kem hexachlorocyclohexan (HCH) thoa lên đường hầm ấu trùng di
chuyển.
Phòng bệnh hiệu quả nhất là không nên tiếp xúc với đất, cát
bị nhiễm bẩn phân chó, mèo,... Khi làm vườn tiếp xúc với đất, cát phải có dụng
cụ, phương tiện bảo vệ. Không cho trẻ em chơi nghịch đất, cát; đi chân đất hoặc
ngồi bệt dưới đất, cát. Nếu có điều kiện, định kỳ nên điều trị tẩy giun cho
chó, mèo nuôi ở trong nhà để hạn chế nguy cơ lây nhiễm.
Trong cuộc sống hàng ngày cùng một môi trường, con người và
các loại động vật nuôi như chó, mèo,... có điều kiện và nhiều cơ hội truyền cho
nhau những mầm bệnh ít nhiều đã thích nghi đối với cơ thể, trong đó có giun móc
của chó, mèo. Khi ấu trùng giun móc chó, mèo xâm nhập vào cơ thể sẽ gây nên hội
chứng ấu trùng di chuyển, nếu không để ý thì khó phát hiện và xử trí điều trị
kịp thời, phù hợp. Vì vậy việc phòng bệnh là vấn đề cần được cộng đồng người
dân quan tâm để chủ động phòng ngừa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét